Thời Gian Làm 8:00 - 20:00Thời Gian Làm 028.39.257.111 - 03.8558.1111

Công nghiệp ô tô VN vẫn luẩn quẩn làm dây điện, săm lốp, ắc quy…

Tham vấn y khoa :

[ad_1]

Theo Bộ Công Thương, tính đến năm 2015, ngành sản xuất ô tô có trên 400 doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Tổng công suất lắp ráp thiết kế khoảng 460.000 xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước khoảng 53%.

Giai đoạn 2001-2014, tốc độ tăng trưởng bình quân của sản xuất lắp ráp ô tô khoảng 17%/năm. Biến động của nền kinh tế và sự thay đổi của chính sách, đặc biệt các chính sách về thuế, phí là các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất cũng như tiêu thụ xe ô tô.

Công nghiệp ô tô VN vẫn luẩn quẩn làm dây điện, săm lốp, ắc quy... - 1

Ảnh minh họa 

Tổng số lượng xe tiêu thụ năm 2010 là 184.813 xe, năm 2011 là 181.545 xe, năm 2012 là 124.815 xe và năm 2013 là 153.199 xe. Lượng tiêu thụ tăng nhanh vào năm 2014 với 241.178 xe, năm 2015 là trên 350.000 xe.

Đến nay thị trường đã có sự tham gia tích cực và rộng rãi của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có một số công ty trong nước Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Huyndai Thành Công..và các tập đoàn ô tô lớn trên thế giới (Toyota, Ford, Honda, Mitsubishi, …).

Tổng năng lực sản xuất – lắp ráp ô tô khoảng 460 ngàn xe/năm, gồm hầu hết các chủng loại xe con (công suất khoảng 200 ngàn xe/năm), xe tải và xe khách (công suất khoảng 215 ngàn xe/năm).

Đánh giá về kết quả đạt được, Bộ Công Thương cho rằng bước đầu đã hình thành nên một ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp một số phụ tùng cho sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước; đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100 ngàn lao động trực tiếp; tích luỹ được kinh nghiệm trong việc lắp ráp ô tô và sản xuất một số phụ tùng, linh kiện.

Bên cạnh đó, các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải đến 07 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 55%). Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ…

Xa vời mục tiêu

Mặc dù ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ô tô đã có kết quả bước đầu song Bộ Công Thương cho biết vẫn còn rất nhiều tồn tại. Cụ thể, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 09 chỗ ngồi với mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Inova, thấp hơn mục tiêu đề ra.

Ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ô tô đã hình thành, nhưng mới chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, săm-lốp, sản phẩm nhựa…Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây chuyền dập thân, vỏ xe.

Ngoài ra, chưa tạo được sự hợp tác – liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất – lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.

Nói về nguyên nhân ngành công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô vẫn còn nhiều yếu kém, Bộ Công Thương cho rằng do dung lượng thị trường nội địa nhỏ, chỉ ở mức độ 200-300 ngàn xe/năm với nhiều mẫu mã, số lượng doanh nghiệp sản xuất – lắp ráp lớn (56 doanh nghiệp), nên thị phần của từng thương hiệu lại càng bị phân nhỏ.

Dung lượng nhỏ không đáp ứng được tiêu chí tính kinh tế theo quy mô trong sản xuất công nghiệp, cả trong việc lắp ráp xe, cũng như sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Hơn nữa, các nguyên vật liệu cơ bản như thép chế tạo, cao su, nhựa và chất dẻo phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

Do vậy giá thành sản xuất cao, khó cạnh tranh. Ngoài nguyên nhân chủ quan, trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp lắp ráp chưa quan tâm đến công nghiệp hỗ trợ, chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất.

Cũng theo đánh giá của Bộ Công Thương về kết quả tình hình thực hiện Chiến lược và Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, đối với chủng loại xe chở người dưới 9 chỗ ngồi (xe con): tỷ lệ nội địa hoá đạt thấp do đối với lĩnh vực sản xuất, lắp ráp dòng sản phẩm này Việt Nam là nước đi sau trong khu vực (so với các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia). Thị trường xe con có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các Tập đoàn toàn cầu.

Còn với chủng loại xe ô tô tải và xe chở người trên 10 chỗ ngồi (xe khách): thì tỷ lệ nội địa hoá gần đạt mục tiêu đề ra. Do các chủng loại xe này là để phục vụ sản xuất – kinh doanh, ít có sự thay đổi về mẫu mã, có thời gian sử dụng dài, kích thước lớn nên không có lợi thế khi nhập khẩu. Vì vậy các dòng xe tải và xe khách sản xuất trong nước vẫn có cơ hội phát triển.

Mục tiêu đến năm 2035 đạt 50.000 xe/năm

Bộ Công Thương cho biết, định hướng giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, Việt Nam phát triển công nghiệp ô tô trở thành ngành công nghiệp quan trọng để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, góp phần phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước, tập trung vào các dòng sản phẩm sau:

Hình thành doanh nghiệp qui mô lớn (dẫn dắt thị trường): Thu hút và tập trung các chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp có Dự án đầu tư sản xuất các dòng xe ưu tiên có quy mô công suất trên 50.000 xe/năm và dự án sản xuất các bộ phận động cơ, hộp số, cụm truyền động.

Đối với xe chở người đến 9 chỗ ngồi: tập trung vào phát triển các sản phẩm xe con phù hợp với người Việt  Nam và xu hướng phát triển xe con của thế giới (xe thân thiện môi trường: eco car, hybrid…)

Đối với xe tải và xe khách: tập trung vào phát triển các chủng loại sản phẩm sản xuất trong nước có lợi thế và các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, nông thôn; các loại xe chuyên dùng, xe khách…

Về công nghiệp hỗ trợ: định hướng cho thời gian tới là tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp lớn nước ngoài trong việc sản xuất linh kiện và phụ tùng, trong đó tập trung vào các bộ phận quan trọng, hàm lượng công lượng công nghệ cao để phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu.

Cụ thể tỷ lệ giá trị sản xuất chế tạo trong nước đối với sản xuất ô tô: đến năm 2020, đạt từ 25- 45%; đến năm 2025, xe đến 9 chỗ đạt 40 – 60%; đến năm 2035 đạt từ 55- 80% tùy vào từng dòng sản phẩm.

[ad_2]

— Đăng bởi V —